Tóm tắt Luận văn Công tác xã hội đối với việc phát huy tính tích cực của nhóm cán bộ cao tuổi hưu trí tại câu lạc bộ Thăng Long, Thành phố Hà Nội
Bạn đang xem tài liệu "Tóm tắt Luận văn Công tác xã hội đối với việc phát huy tính tích cực của nhóm cán bộ cao tuổi hưu trí tại câu lạc bộ Thăng Long, Thành phố Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
tom_tat_luan_van_cong_tac_xa_hoi_doi_voi_viec_phat_huy_tinh.pdf
Nội dung tài liệu: Tóm tắt Luận văn Công tác xã hội đối với việc phát huy tính tích cực của nhóm cán bộ cao tuổi hưu trí tại câu lạc bộ Thăng Long, Thành phố Hà Nội
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG CAO THỊ HOÀNG VÂN - C00245 CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA NHÓM CÁN BỘ CAO TUỔI HƯU TRÍ TẠI CÂU LẠC BỘ THĂNG LONG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH: CÔNG TÁC XÃ HỘI MÃ SỐ : 60 90 01 01 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. TS Đặng Cảnh Khanh HÀ NỘI - 2016
- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Người cao tuổi là những người có độ tuổi từ 60 tuổi trở lên (Luật người cao tuổi, 2009), chiếm 10% dân số của Việt Nam. Trong những năm gần đây, quá trình phát triển dân số đang bước vào giai đoạn già hóa dân số, điều đó đồng nghĩa với việc tỷ lệ người cao tuổi trên 60 tuổi ngày càng đông hơn trong xã hội. Người cao tuổi là một trong nhóm yếu trong xã hội, sau một quãng dài trong cuộc đời, sức khoẻ họ sẽ bị suy yếu một cách rõ nét do ảnh hưởng của quá trình lão hóa. Sức khoẻ là vấn đề quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của người cao tuổi. Cùng với quá trình lão hóa, quá trình thay đổi về sinh lý, tâm lý con người trong giai đoạn cao tuổi cũng có rất nhiều vấn đề nổi bật. Hơn nữa, bước vào giai đoạn cao tuổi đồng nghĩa là con người bước vào giai đoạn nghỉ ngơi. Tuy nhiên chỉ có một số ít người cao tuổi có điều kiện kinh tế khá giả: Cán bộ, viên chức nhà nước nghỉ hưu, sự hỗ trợ của con cháu Còn lại đa số người tuổi, nhất là những người neo đơn đều gặp phải những khó khăn về kinh tế do sự suy giảm của thu nhập. Trong khi đó các nhu cầu của người cao tuổi, nhất là khám chữa bệnh hay chế độ dinh dưỡng đòi hỏi những chi phí nhất định Trên thế giới, các mô hình trợ giúp người cao tuổi khá phổ biến, đặc biệt ở các nước châu Âu. Tại các nước có nền kinh tế phát triển, khi dân số già đi sẽ gia tăng nhu cầu về các dịch vụ chăm sóc cho người già và trung tâm dưỡng lão đã trở thành nơi bầu bạn cùng chia sẻ và được chăm sóc y tế tốt nhất. Chính vì vậy, người cao tuổi nói chung và nhóm người cao tuổi về hưu ngày càng trở thành một vấn đề cần quan tâm của xã hội, đặc biệt từ góc độ chính sách và công tác xã hội nhằm có những biện pháp giúp đỡ. Nhóm người cao tuổi, đặc biệt là cán bộ lão thành cách mạng và hưu trí có nhiều thành tích đóng góp trong mọi lĩnh vực phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Thực tế cho thấy, bề dày tri thức, kinh nghiệm của nhóm cán bộ hưu trí là tài sản quý của cộng đồng và xã hội. Phần đông trong số họ khi còn đủ sức khoẻ và điều kiện, ngay cả sau khi nghỉ hưu họ vẫn tìm cơ hội để tiếp tục lao động, cống hiến, sáng tạo trong cộng đồng với nhiều hình thức và cấp độ khác nhau 1
- tạo ra nhiều hoạt động mang ý nghĩa thiết thực đối với sự phát triển chung. Bên cạnh các vấn đề y tế, chăm sóc sức khoẻ cho người cao tuổi, việc xây dựng cơ chế đối với các hoạt động công tác xã hội tại cộng đồng nhằm phát huy khả năng lao động, cống hiến của người cao tuổi không chỉ đem lại niềm vui cho các cụ (sống vui, sống khoẻ, sống có ích) mà còn đem lại thành quả, lợi ích xã hội từ các sản phẩm vật chất và tri thức do người cao tuổi làm ra. Câu lạc bộ Thăng Long là một trong những mô hình hoạt động của người cao tuổi và công tác xã hội đối với người cao tuổi đầu tiên ở nước ta, đươc̣ thành lập năm 1978. Đây là nơi sinh hoạt, mái nhà chung của những cán bộ trung, cao cấp của Trung ương và thành phố Hà Nội sau khi hoàn thành nhiệm vụ, về nghỉ hưu. Những hoạt động của câu lạc bộ góp phần quan trọng nhằm củng cố, nâng cao nhận thức và tăng cường niềm tin vào sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, CLB Thăng Long vẫn chưa đáp ứng hết được những nhu cầu của những thành viên như mặt đời sống tinh thần, một số thành viên chưa có tiếng nói trong CLB, vai trò của một số người chưa được phát huy Vì vậy, để hoàn thiện hơn các hoạt động cũng như đưa CLB trở thành một trung tâm chuẩn đầu tiên điển hình về người cao tuổi ở Việt Nam cần có những biện pháp can thiệp của CTXH. Chính từ thực tế trên, chúng tôi lựa chọn chủ đề nghiên cứu “Công tác xã hội đối với việc phát huy vai trò tích cực của nhóm cán bộ cao tuổi hưu trí tại Câu lạc bộ Thăng Long Hà Nội”. Qua chủ đề nghiên cứu này, chúng tổi muốn nghiên cứu thực trạng, đề xuất giải pháp phát huy vai trò người cao tuổi qua các mô hình công tác xã hội không chỉ góp phần cải thiện, đem lại hiệu quả cao hơn cho các mô hình công tác xã hội nói chung mà còn góp phần nâng cao các hoạt động của ngành công tác xã hội hướng tới phát huy khả năng lao động, cống hiến của nhóm cán bộ hưu trí cao tuổi, vì mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích Nghiên cứu, đánh giá thực trạng hoạt động công tác xã hội trong việc phát huy tích cực vai trò tích cực của nhóm cán bộ hưu trí cao tuổi tại câu lạc bộ Thăng Long từ đó đề xuất các giải pháp, khuyến 2
- nghị nâng cao hiệu quả của các mô hình công tác xã hội đối với người cao tuổi. 2.2. Nhiệm vụ Thứ nhất, luận văn sử dụng các lý thuyết cơ bản của ngành công tác xã hội, các lý thuyết liên ngành có liên quan, quan điểm Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về các hoạt động công tác xã hội đối với người cao tuổi. Luận văn cũng thao tác hóa và làm rõ các khái niệm cơ bản sử dụng trong nghiên cứu này như: người cao tuổi, tuổi nghỉ hưu, cán bộ hưu trí, vai trò và phát huy vai trò người cao tuổi, công tác xã hội đối với người cao tuổi. Thứ hai, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu định tính, phỏng vấn sâu, thu thập, phân tích các nguồn tài liệu khác làm rõ thực trạng công tác xã hội hướng đến phát huy vai trò tích cực của cán bộ hưu trí cao tuổi tại mô hình câu lạc bộ Thăng Long, các yếu tố chủ quan và khách quan tác động, đặc biệt là các vấn đề về cơ chế, chính sách, so sánh biểu hiện của cơ chế, chính sách thông qua các loại hình công tác xã hội khác đối với người cao tuổi Thứ ba, từ kết quả phân tích thực trạng, luận văn tập trung nghiên cứu, đề xuất các giải pháp, khuyến nghị góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động công tác xã hội, phát huy vị thế, vai trò của người cao tuổi về hưu trong hoạt động lao động, cống hiến cho sự nghiệp phát triển đất nước. 3.Tổng quan vấn đề nghiên cứu Trên thế giới, vấn đề người cao tuổi đã được quan tâm từ rất lâu ở các nước phát triển, qua đó xây dựng được những mô hình công tác xã hội chăm sóc người cao tuổi phù hợp với từng quốc gia. Tuy nhiên ở các nước đang phát triển, trong đó có châu Á, vấn đề người cao tuổi cho tới nay mới bắt đầu thu hút được sự quan tâm của nhiều chuyên gia và nhà nghiên cứu. 5. Đối tượng nghiên cứu Công tác xã hội đối với việc phát huy vai trò tích cực của cán bộ hưu trí cao tuổi 6. Khách thể nghiên cứu Nhóm khách thể nghiên cứu chính là cán bộ hưu trí cao tuổi (trên 60 tuổi) đang sinh hoạt tại câu lạc bộ Thăng Long. Ngoài ra, luận văn sẽ nghiên cứu các nhóm khách thể nghiên cứu khác có liên quan đến chủ đề nghiên cứu như nhóm các nhà quản lý, hoạch định chính sách đối với người cao tuổi, nhóm lãnh đạo chính 3
- quyền, đoàn thể địa phương, nhóm quản lý câu lạc bộ, nhóm những người làm công tác xã hội đối với người cao tuổi. 7. Câu hỏi nghiên cứu Người cao tuổi là cán bộ hưu trí sinh hoạt tại câu lạc bộ Thăng Long hiện nay đang có vai trò gì, đóng góp gì trong các hoạt động cộng đồng Công tác xã hội đối với việc phát huy vai trò tích cực của cán bộ hưu trí cao tuổi tại câu lạc bộ Thăng Long hiện nay đang được triển khai, thực hiện như thế nào Cần những giải pháp gì để nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác xã hội đối với việc phát huy vai trò tích cực của cán bộ hưu trí cao tuổi tại câu lạc bộ Thăng Long 8. Giả thuyết nghiên cứu Vai trò cán bộ hưu trí cao tuổi biểu hiện qua hoạt động xã hội tiếp tục lao động, cống hiến, hoạt động vui chơi giải trí, sinh hoạt cộng đồng, hoạt động tuyên truyền, vận động tạo ra sự đồng thuận của nhân dânvới các chính sách của Đảng, nhà nước là hiện tượng khá phổ biến của người cao tuổi tại câu lạc bộ Thăng Long. Hoạt động xã hội của cán bộ hưu trí cao tuổi là hoạt động có tổ chức, phong phú, đa dạng theo nhiều lĩnh vực, nhiều cấp độ khác nhau, phụ thuộc vào khả năng, điều kiện, mong muốn bản thân người cao tuổi, phụ thuộc vào mô hình tổ chức, hoạt động của câu lạc bộ Thăng Long và đơn đặt hàng của xã hội. 9. Phạm vi nghiên cứu Về thời gian: từ năm 2015 - 2016 Về không gian: địa bàn thành phố Hà Nội. 10. Phương pháp nghiên cứu 10.1 Phương pháp phân tích tài liệu 10.2. Phương pháp điều tra Xã hội học 10.3. Phương pháp công tác xã hội 4
- PHẦN NỘI DUNG Chương 1 PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ LÝ THUYẾT ÁP DỤNG 1.1. Khái niệm nghiên cứu 1.1.1. Công tác xã hội CTXH là sự vận dụng các lý thuyết khoa học về hành vi con người và hệ thống xã hội và thúc đẩy sự thay đổi lieen quan đến vị trí, địa vị, vai trò của cá nhân, nhóm, cộng đồng người yếu thế nhằm tới sự bình đẳng và tiến bộ xã hội. CTXH còn là một dịch vụ chuyên môn hóa, góp phần giải quyết những vấn đề xã hội liên quan đến con người nhằm thỏa mãn các nhu cầu căn bản của những cá nhân, nhóm, cộng đồng xã hội; mặt khác, góp phần giúp cá nhân tự nhận thức về vị trí, vai trò xã hội của chính mình. 1.1.2 Công tác xã hội nhóm Công tác xã hội nhóm trước hết phải được coi là một phương pháp can thiệp của công tác xã hội. Đây là một tiến trình trợ giúp mà trong đó các thành viên trong nhóm được tạo cơ hội và môi trường có các hoạt động tương tác lẫn nhau, chia sẻ những mối quan tâm hay những vấn đề chung, tham gia vào các hoạt động nhóm nhằm đạt tới mục tiêu chung của nhóm và hướng đến giải quyết những mục đích của cá nhân thành viên giải tỏa những vấn đề khó khăn. Trong hoạt động công tác xã hội nhóm, một nhóm thân chủ được thành lập, sinh hoạt thường kỳ dưới sự điều phối của người trưởng nhóm (có thể là nhân viên xã hội và có thể là thành viên của nhóm) và đặc biệt là sự trợ giúp, điều phối của nhân viên xã hội (trong trường hợp trưởng nhóm là thành viên của nhóm). 1.1.3 Khái niệm người cao tuổi Theo Luật người cao tuổi năm 2009 thì người cao tuổi được quy định là công dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên. Như vậy, trong luận văn, tác giả sẽ sử dụng định nghĩa này đảm bảo được tính khách quan và tin cậy. 1.1.4 Khái niệm nhóm cán bộ cao tuổi Khái niệm nhóm cán bộ cao tuổi là nhóm công dân Việt Nam được bầu cử, phê chuẩn để đảm nhiệm vào các tổ chức chính trị trong các cơ quan của Đảng và Nhà nước, hưởng lương từ Nhà nước. Nhóm cán bộ này đủ từ 60 trở lên đã hoặc chuẩn bị nghỉ hưu. 5
- 1.2. Phương pháp luận Trong bài luận văn, tác giả sử dụng nghiên cứu về triết học duy bật biện chứng và duy vật lịch sử Hướng tiếp cận nghiên cứu Tiếp cận Y học – xã hội Vận dụng lý thuyết này để lý giải về các loại hình dịch vụ chăm sóc người cao tuổi: chúng ta thấy tình trạng sức khoẻ của ng- ười cao tuổi và bệnh tật của người cao tuổi ngoài những nguyên nhân về mặt thể chất, chế độ sinh hoạt còn có những nguyên nhân từ phía xã hội. Một trong những nguyên nhân mang tính xã hội là tình hình chăm sóc người cao tuổi, mà trong đề tài này chủ yếu đề cấp đến. Ngược lại, sức khoẻ và bệnh tật ở người cao tuổi cũng có những tác động và ảnh hưởng đến xã hội. Tiếp cận truyền thông Lý thuyết truyền thông được áp dụng trong việc tiếp cận vấn đề nghiên cứu người già ở chỗ cần phải coi truyền thông nh là một công cụ để nâng cao hiệu quả, chất lợng hoạt động và phổ biến các loại hình dịch vụ chăm sóc người cao tuổi. Muốn loại hình này phát triển, đặc biệt là ở một xã hội truyền thống như ở nước ta - nơi người cao tuổi thường được kính trọng và chăm sóc trong gia đình hơn là việc sử dụng các dịch vụ chăm sóc bên ngoài xã hội, thì việc áp dụng các mô hình truyền thông có vai trò to lớn. 1.3. Các lý thuyết vận dụng trong luận văn Lý thuyết hệ thống Thuyết hệ thống được sử dụng rộng rãi trong Công tác xã hội nhóm, giúp cho nhân viên xã hội và xác định nhóm là một hệ thống của các yếu tố tương tác với nhau, Thuyết hệ thống cung cấp một mô hình, lí thuyết để giúp hiểu biết và phương cách đáp ứng nhu cầu, giải quyết vấn đề của con người trong môi trường sống. Thuyết hệ thống giúp hiểu sâu sắc hơn về các thể chế, mối tương tác của con người với nhau, với hoàn cảnh và các thể chế có tác động đến con người. Thuyết vai trò Thuyết vai trò được áp dụng vào Công tác xã hội nhóm để chỉ ra rằng trong nhóm nhất định tồn tại các vị trí khác nhau, các vai trò khác nhau và các vị trí, vai trò này được phân công, thể hiện bởi các thành viên nhóm. Mỗi vị trí thể hiện chi tiết các vai trò bao gồm một chuỗi các chức năng cần thiết. Vì vậy, khi là thành viên của 6
- nhóm trong Công tác xã hội nhóm, các cá nhân thành viên luôn đóng một vai trò cụ thể nào đó với những yêu cầu, nhiệm vụ được giao để thực hiện vai trò và họ luôn cố gắng để hoàn thành các chức năng đó. 1.4. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về người cao tuổi Vấn đề người cao tuổi và an sinh tuổi già là mối quan tâm đặc biệt của Nhà nước ta. Kể từ ngày thành lập nước, Hiến pháp nước ta mặc dù đã có sự thay đổi nhiều lần nhưng bao giờ cũng đều có điều khoản về bảo vệ và chăm sóc người cao tuổi. Nhà nước đã đề một loạt các chương trình xã hội thực hiện bảo đảm xã hội cho tuổi già. Đảng và Chính phủ luôn có những chính sách phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội để giúp người già có cuộc sống ổn định, tiếp tục đóng góp công sức, những kinh nghiệm quý báu cho sự nghiệp cách mạng. Từ sau cách mạng Tháng Tám đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã có rất nhiều chính sách liên quan đến người cao tuổi. Chương 2 PHÂN TÍCH VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 2.1. Tình hình người cao tuổi ở Việt Nam hiện nay Theo tổ chức y tế thế giới (WHO) thì một đất nước có trên 10% người cao tuổi được coi là một đất nước già hoá dân số. Già hoá dân số có tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế- xã hội của một quốc gia. Dưới góc độ nhân khẩu học, khi số người già tăng lên sẽ tác động trực tiếp làm tăng tỷ lệ phụ thuộc tuổi già. Điều này cho thấy số lượng những người hưởng thụ tiềm năng về sức khoẻ và quĩ hưu trí tăng lên và được hỗ trợ bởi một số tương đối nhỏ hơn những người đóng góp tiềm năng (những người trong độ tuổi hoạt động kinh tế từ 15-64). Theo các kết quả nghiên cứu về già hoá dân số thì ở các quốc gia đang phát triển như Việt Nam tốc độ già hoá dân số sẽ rất nhanh và nó đòi hỏi có những giải pháp kịp thời nhằm thích nghi với một xã hội nhiều ngừơi già. Những chính sách về an sinh cho người già, chăm sóc, phát huy tài năng trí tuệ của họ trong thời kỳ xây dựng đất nước cần được quan tâm nghiên cứu và ban hành. Đời sống kinh tế, xã hội phát triển, hoạt động chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân cũng từng bước được nâng cao trong đó chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi cũng được chú trọng. 2.2. Hiện trạng đời sống người cao tuổi 2.2.1. Một số đặc điểm tâm sinh lý của người già 7
- Người già là một người có sự suy thoái tự nhiên của các tế bào như: tóc bạc, da nhăn nheo, khả năng tình dục giảm, cơ bắp nhão, xương dễ bị giòn, dễ bị gãy do vôi hoá nhiều, trí nhớ ngắn hạn giảm (là những sự việc vừa mới xảy ra, họ có thể quên ngay) nhưng những trí nhớ dài hạn lại vẫn ở mức độ cao ( chẳng hạn những kỉ niệm xưa cũ, họ vẫn có thể nhớ từng chi tiết nhỏ), quá trình đồng hoá và dị hoá giảm mạnh, hoạt động của các cơ quan nội tạng như phổi bị teo, bộ phận tuần hoàn, tiêu hoá, bài tiết... giảm sút do vậy việc đi lại gặp nhiều khó khăn. 2.2.2. Những lĩnh vực hoạt động sống chủ yếu của người già + Về hoạt động lao động : nhiều người già nhất là những người sau khi về hưu vẫn tiếp tục làm việc dưới nhiều hình thức khác nhau như : tiếp tục làm những công việc cũ, làm những việc mới phù hợp với sức lực, năng lực và điều kiện của mình, làm các công việc nội trợ, trông cháu trong gia đình... không mấy ai chịu ‘bó tay’ nghỉ ngơi hoàn toàn. Có rất nhiều động cơ khiến người già tiếp tục tham gia vào công việc. Từ những động cơ kinh tế (do hoàn cảnh bức bách), động cơ mang tính chất tâm lý- xã hội (do không muốn mất đi uy tín và địa vị xã hội)... cho đến những động cơ mang tính chất nghề nghiệp thuần tuý ( những người say mê với nghề nghiệp, sống bằng ‘ công việc’. +Về thu nhập : do phải lao động để kiếm sống vào lúc tuổi cao sức yếu, mà thu nhập cuộc sống của người già thấp thậm chí nhiều người còn khó khăn chật vật. Thu nhập của người già phụ thuộc chủ yếu tương đối ổn định là dựa vào bảo hiểm, lương hưu, lợi tức, việc làm, sự giúp đỡ của cộng đồng và sự trợ giúp của con cháu. + Về sinh hoạt : trong mọi thể chế xã hội hiện tồn dưới mọi hình thức hiện có, gia đình là một thực thể văn hoá song hànhbiến đổi theo hai chiều : không gian và thời gian. Chiều không gian là những đặc trưng văn hoá giữa các vùng khác nhau, còn chiều thời gian là sự biến đổi của gia đình từ truyền thống đến hiện đại. + Về cách sắp xếp cuộc sống : khi còn sức khoẻ và khả năng lao động và nhất là khi con cái đã trưởng thành và có gia đình riêng người già mong muốn được tách ra để có cuộc sống độc lập với con cái. Họ chỉ muốn quay trở về sống với con cháu cho vui vẻ hơn, để có được những điều kiện chăm sóc tốt hơn, khi tuổi đã cao, sức đã yếu và một trong hai vợ chồng họ có người không may bị mất sớm hơn. Vì thế, trong gia đình con cái luôn đóng một vai trò lớn trong 8
- việc chăm sóc và giúp đỡ cha mẹ già, nhất là khi cha mẹ họ muốn quay trở lại sống cùng con cháu. + Về việc sử dụng thời gian rỗi : Ở cái tuổi gần đất xa trời, người già bị hạn chế bởi bệnh tật bởi sức khoẻ, bởi khả năng đi lại... nên thời gian rỗi của người già thường dùng trong những hoạt động có tính chất cá nhân nhiều hơn là các hoạt động mang tính tập thể và cộng đồng. Những hình thức sinh hoạt mang tính chất hưởng thụ cá nhân được người già tham gia thường xuyên là đọc sách báo, nghe đài, xem vô tuyến.. Những hình thức sinh hoạt có tính chất nhóm ít thường xuyên hơn, nhưng lại có số đông người già thích tham gia là hoạt động giao tiếp trong gia đình, họ hàng và trong các bạn bè tri kỷ. Các hình thức sinh hoạt cộng đồng có tính phi chính thức như cưới hỏi, cúng giỗ, lễ hội, chùa chiền đặc biệt là ma chay ở các nước phương Đông là những hoạt động được nhiều người già tham gia. Còn đối với các sinh hoạt cộng đồng có tính chất chính thức hơn như : hội bảo thọ, mặt trận tổ quốc, hội phụ nữ... mặc dù có tên trong danh sách các hội viên, nhưng thực chất không được người già quan tâm nhiều lắm. + Về tính tích cực xã hội của người già : So với các nước phương Tây, người già Việt Nam có được những điều kiện thuận lợi để thực hiện được nguyện vọng của mình hòng đóng góp công sức, kinh nghiệm và kiến thức cho xã hội. + Về sức khoẻ : Ở tuổi đáng được nghỉ ngơi, song do thích lao động (đối với các cụ chưa quen hẳn với cách sống mới), do phải lao động kiếm sống (đối với những người già có hoàn cảnh khó khăn) và với mức sống hạn chế ( có thể nói là thấp)... mà sức khoẻ của người già ngày càng bị suy giảm nhanh chóng theo độ tuỏi và theo giới tính. Cùng với sự tăng lên của tuổi tác là sự xuất hiện thường xuyên hơn của bệnh tật. Nhất là các bênh về tim mạch, thiếu dinh dưỡng, phong thấp, hen suyễn... Những người già nào càng hút thuốc, uống rượu nhiều, lại ít tập thể thao, ít vận động thì sức khoẻ lại càng tồi tệ. Đặc biệt là những người già nào rơi vào hoàn cảnh có nhiều vấn đề như : cô đơn, mất người thân trong gia đình, nghỉ hưu do mất vị trí xã hội và thu nhập thấp, quan hệ với con cái có những xung đột thế hệ... thì họ dễ bị nhiễm bệnh, thậm chí có thể bị rối loạn tâm thần. 1.2.3. Phản ứng của xã hội đối với người già 9

